“Đa nguyên chính trị” là một khuynh hướng xã hội - triết học, tuyệt đối hóa sự đa dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong một xã hội nhất định. Nó xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, thời điểm này giai cấp tư sản đóng vai trò là lực lượng xã hội tiến bộ, tích cực trong phong trào đấu tranh chống phong kiến, bảo vệ quyền bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản. Tuy nhiên, khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, ý nghĩa tích cực ban đầu của đa nguyên, đa đảng dần biết mất. Thay vào đó, nó trở thành một thủ đoạn để điều chỉnh lợi ích trên nguyên tắc cạnh tranh giữa các nhóm, tổ chức độc quyền có lực lượng ngang bằng nhau và là lá bài “dân chủ” nhằm tạo ra những thứ cần thiết để che đậy chính sách và nền tảng của các hoạt động phản cách mạng, bảo đảm quyền lực và lợi ích của giai cấp tư sản.
Khi chủ
nghĩa xã hội xuất hiện, đa nguyên chính trị trở thành phương tiện để các thế
lực thù địch đánh lạc hướng tư tưởng của quần chúng thông qua việc đòi mở rộng
quyền tự do dân chủ vô chính phủ, xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, đòi thực
hiện chế độ đa đảng… theo đó từng bước vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN. Từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN
ở Đông Âu những năm 90 của thế kỷ XX, có thể nói rằng, các thế lực
thù địch đã thành công nhất định trong sử dụng chiêu bài “đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập” để chống phá CNXH. Với việc chấp nhận bỏ Ðiều 6 trong Hiến
pháp Liên Xô, dẫn đến tình trạng xuất hiện đa đảng và hậu quả là Ðẩng Cộng sản
Liên Xô dần đánh mất quyền lãnh đạo, Liên Xô nhanh chóng rơi vào khủng hoảng và
sụp đổ. Hiện thực đau xót này cũng chính là bài học đắt giá về thực thi dân chủ
sai nguyên tắc đối với các nước XHCN hiện tại cũng như cuộc đấu tranh vì sự
tiến bộ trên thế giới hiện nay.
Thực
chất của “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” là sự phân chia, tranh giành
quyền lực của các lực lượng chính trị trong xã hội khi không có sự điều hòa về
lợi ích; đó cũng chính là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp. Hiện
nay, hầu hết các nước tư bản đều thực hiện đa nguyên, đa đảng. Bề ngoài thì các
đảng chính trị có vẻ như được tự do, bình đẳng tranh cử để trở thành đảng cầm
quyền, chi phối Quốc hội và Chính phủ. Nhưng thực chất bên trong, chỉ có những
đảng nào được sự hậu thuẫn của các thế lực tư bản độc quyền mới có thể giữ được
vai trò lãnh đạo và suy cho cùng thì tất cả đều bảo vệ cho lợi ích duy nhất của
một giai cấp, đó là giai cấp tư sản. Thực tế cho thấy, Mỹ là quốc gia có 112
đảng, nhưng chỉ có hai đảng (Cộng hòa và Dân chủ) thay nhau cầm quyền, bởi
chúng nhận được sự tài trợ của các tập đoàn kinh tế, đại diện cho lợi ích của
giai cấp tư sản. Theo đó, dân chủ ở Mỹ nói riêng và các nước tư bản chủ nghĩa
nói chung cũng chỉ là nền dân chủ tư sản - một nền dân chủ phục vụ cho thiểu
số, đó là các nhà tư bản tài phiệt. Nói cách khác, đa nguyên, đa đảng đã không
những không mang lại lợi ích và dân chủ “thật sự” cho nhân dân mà còn vi phạm
quyền dân chủ của nhân dân, chế độ đa
nguyên, đa đảng không phải là cơ sở để bảo
đảm được dân chủ đích thực.
Đối
với chủ nghĩa xã hội, dân chủ thuộc bản chất của chế độ XHCN. Bản chất của chế
độ dân chủ XHCN là quyền làm chủ thực tế trên mọi lĩnh vực xã hội của nhân dân
lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và thông qua sự quản lý của nhà
nước XHCN. Cơ sở khách quan qui định bản chất chế độ dân chủ XHCN là chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất và bản chất chính trị - xã hội của giai cấp công
nhân. Nền dân chủ vô sản gắn chặt với cuộc đấu tranh vì CNXH, cho nên, nó chỉ
có thể được thực hiện bằng con đường thiết lập quyền lãnh đạo của giai cấp công
nhân đối với toàn bộ xã hội thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản.
Từ lý luận cũng như thực
tiễn cách mạng thế giới, cho ta thấy rằng, chế độ đa đảng không phải là dấu
hiệu của dân chủ, chế độ một đảng không phải là nguyên nhân của mất dân chủ.
Cái gốc để bảo đảm dân chủ hay không dân chủ là tư liệu sản xuất nằm trong tay
ai, hay nói cách khác là nó phụ thuộc vào bản chất của đảng cầm quyền. Vì vậy,
sự rêu rao “đa đảng là dân chủ, độc đảng là độc tài” chỉ là những trò lừa mị
dân muốn lái sự suy nghĩ và hành động của nhân dân đi theo hướng của lợi nhuận
và sức mạnh của các tập đoàn tài chính đầu
sõ, là sự đe dọa cuộc đấu tranh cho hòa bình, tiến bộ.
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam được Hiến pháp (1980, 1992 và 2013) khẳng định là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong các kỳ đại hội, Đảng luôn nhất
quán về vấn đề này. Điều này hoàn toàn không xuất phát từ ý muốn chủ quan của
Đảng hay của bất kỳ một lực lượng nào, mà nó được xây dựng trên cơ sở khoa học
cả về lý luận và thực tiễn. Nhìn lại lịch sử dân tộc, trong bối cảnh cách mạng
Việt Nam bế tắc về đường lối, dưới ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ
Chí Minh đã tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức tiến tới thành
lập một chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân - Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930).
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh,
toàn dân tộc đã đoàn kết thực hiện thành công Cách mạng Tháng 8 năm 1945, khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng
chiến trường kỳ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước cùng đi
lên CNXH.
Từ sau năm 1975 đến nay,
nền chính trị nhất nguyên với vai trò lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản Việt
Nam được củng cố và phát triển toàn diện. Đặc biệt, công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước 35 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thu được nhiều thành tựu to
lớn, có ý nghĩa thời đại. Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, duy
trì được tốc độ tăng trưởng khá, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển;
an ninh chính trị được giữ vững; đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện
và nâng cao; dân chủ xã hội ngày càng được bảo đảm, “các lĩnh vực an sinh xã
hội, y tế, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, bảo vệ môi trường, phát
triển văn hóa, xây dựng con người Việt nam, v.v. có nhiều chuyển biến tích cực,
có mặt khá nổi bật”[1]…
Điều đó một lần nữa khẳng định nhất quán về vai trò lãnh đạo độc tôn của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước kia, cũng
như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay. Như vậy,
thể chế nhất nguyên - một đảng lãnh đạo ở Việt Nam hoàn toàn không đồng nghĩa
với việc mất dân chủ như các thế lực thù địch đã và đang ra sức xuyên tạc.
Tuy nhiên, cũng cần thấy
rằng, trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam không tránh khỏi những
sai lầm, khuyết điểm. Song, Đảng ta đã dám nhìn thẳng vào sự thật để rồi nghiêm
túc tự chỉnh đốn, tự đổi mới để từng bước xây dựng Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm
vụ. Chúng ta cũng không phủ nhận một thực tế rằng, trong xã hội vẫn còn những
biểu hiện thiếu dân chủ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực… nhưng đó chỉ là những
hiện tượng riêng lẻ, là những hạn chế cụ thể trong quá trình xây dựng nền dân
chủ XHCN. Không thể xem đó là bản chất của Đảng; cũng không thể coi đó là bản
chất của nền dân chủ XHCN mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang gắng sức
xây dựng; càng không thể xem đó như là cơ sở để tạo cớ đòi “đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập”, từ đó xuyên tạc, phủ nhận giá trị của bầu cử Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2021 – 2026.
Tóm lại, ở Việt Nam hiện nay không có cơ
sở xã hội cho sự tồn tại của chế độ đa đảng. Hệ thống chính trị ở Việt Nam vận
hành theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
TS NND
[1]
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, H.2021, t.1, tr.21
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét