Sinh thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn quan tâm vấn đề đoàn kết tôn giáo, tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Theo Người, đoàn kết tôn giáo gồm đoàn kết giữa
đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo với đồng bào không có tín ngưỡng tôn giáo;
đoàn kết giữa đồng bào theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; và đoàn kết
giữa đồng bào trong cùng tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc, dưới sự lãnh
đạo của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệpcách mạng…
Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân ta đã chỉ rõ thực dân, đế quốc thường lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng. Chúng không chỉ có những âm mưu, thủ đoạn để chia rẽ nhân dân các vùng, miền, giữa thành thị và nông thôn, đồng bào kinh với đồng bào dân tộc, mà còn triệt để thực hiện chính sách chia rẽ đồng bào có tôn giáo với đồng bào không tôn giáo, giữa đồng bào các tôn giáo khác nhau, thậm chí gây chia rẽ đồng bào ngay trong nội bộ một tôn giáo. Vì thế, theo Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo là tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, giải phóng con người thoát khỏi nô dịch, áp bức, bất công, đưa cả nước đi lên CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.
Chính vì vậy, ngay
sau khi nước nhà độc lập, trong Phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời
(3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Thực dân và phong kiến thi hành
chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề
nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và Lương Giáo đoàn kết”(1).
Người kêu gọi toàn
dân, lương và giáo xóa bỏ mặc cảm, thực hiện tư tưởng: đoàn kết lương giáo, chủ
trương “Lương giáo đoàn kết để kháng chiến kiến quốc thắng lợi”. Trong “Thư gửi
Hội Phật tử Việt Nam”(8-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Nay đồng bào ta
đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực
dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc
lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích
Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ”(2).
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
tâm sâu sắc đến lợi ích thiết thực của giáo dân cả phần đời và phần đạo. Theo
Người, nước độc lập mà dân không được ấm no hạnh phúc thì độc lập cũng không có
nghĩa lý gì. Đồng bào các tôn giáo theo cách mạng mà Đảng, Nhà nước không quan
tâm đến lợi ích thiết thân của đồng bào để “phần xác ấm no, phần hồn thong
dong” thì không thể đoàn kết được. “Nếu giáo dục tốt thì giáo dân có thể đấu
tranh... sống theo Đảng, chết theo Chúa.... Ta quan tâm đời sống quần chúng thì
quần chúng sẽ theo ta. Ta được lòng dân thì không sợ gì cả...”(3).
Từ đó, Người đặc biệt quan tâm đến mọi mặt đời sống sản xuất, ăn ở, học hành
của đồng bào tôn giáo; nhắc nhở cán bộ chú ý phát triển sản xuất, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của giáo dân; gửi thư thăm hỏi, động viên, tặng quà...
Với những người lầm đường lạc lối, Người kiên trì thuyết phục, cảm hoá với thái
độ khoan dung độ lượng, lời lẽ chân tình, bởi họ đều là “ruột thịt”, “con Lạc,
cháu Hồng”, đều có lòng yêu nước nhưng do mắc mưu kẻ địch nên chưa nhận ra lẽ
phải. Vì thế, Người luôn “mong những đồng bào đó mau mau giác ngộ và quay về
với kháng chiến để phụng sự Chúa, phụng sự Tổ quốc”. Chính phủ luôn “hoan
nghênh rộng rãi như những người con đi lạc mới về”(4). Tấm gương ứng
xử của Người đối với đồng bào các tôn giáo đã cảm hoá được đa số chức sắc, tín
đồ các tôn giáo theo Đảng làm cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, lợi dụng tôn giáo để chống lại cách
mạng luôn là thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm kích động mâu thuẫn, chia rẽ đoàn
kết lương-giáo, phá hoại đoàn kết dân tộc. Chúng tuyên truyền: “Cộng sản là vô
thần sẽ tiêu diệt tôn giáo”, “thà mất nước còn hơn mất Chúa”… Và thực tế, một
bộ phận giáo dân đã mắc mưu, tin theo luận điệu thâm độc đó.
Ngay từ năm
1924, Người đã lên án mạnh mẽ và tố cáo những giáo sỹ Pháp làm gián điệp, bắn
giết đồng bào ta. “Chính những tên giáo sĩ đã vẽ bản đồ An Nam cho quân xâm
lược. Chính bọn họ đã đưa tin cho gián điệp dẫn đường cho đội viễn chinh và tố
giác những người yêu nước”(5). Trong
thời kỳ thực dân xâm lược, Người chỉ rõ: Thực dân Pháp là bọn đốt nhà thờ, hiếp
bà phước, giết tín đồ chức sắc, giết dân ngoại đạo... “Thực dân là lũ Sa Tăng/
Phản Chúa, phá đạo là thằng thực dân”(6). Người luôn phân định rạch ròi tôn giáo với việc lợi dụng tôn giáo để làm
điều xấu. Người coi những phần tử đội lốt tôn giáo để chống phá cách là “Việt
gian đồng thời cũng là giáo gian”, là những kẻ bất chính, giả danh tín đồ để
làm điều xấu độc. Người kêu gọi: “đồng bào cảnh giác và chớ mắc mưu những kẻ
tuyên truyền lừa bịp”, “Bảo vệ tự do tín ngưỡng, nhưng cương quyết trừng trị
những kẻ đội lốt tôn giáo để phản Chúa, phản nước”(7).
Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch đã lợi dụng nhiều thủ
đoạn nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
Chúng lợi dụng con đường công khai, hợp pháp để triển khai các hoạt động xâm
phạm lợi ích quốc gia - dân tộc; chúng tìm mọi thủ đoạn hòng xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng, thay đổi thể chế chính trị của đất nước... trong đó, có
chiêu bài lợi dụng vấn đề tôn giáo, đội lốt tôn giáo để thực hiện mưu đồ chống
phá.
Theo đó, chúng thường lợi dụng các vấn đề như: đức tin và sự gắn kết
cộng đồng tôn giáo để lôi kéo, tập hợp lực lượng chống đối; khoét sâu những mâu
thuẫn, vấn đề nảy sinh về tôn giáo để chống phá; lợi dụng những sơ hở, bất cập,
yếu kém trong thực hiện công tác tôn giáo và các vấn đề nhạy cảm được dư luận
quan tâm để thổi phồng, xuyên tạc “đặt điều dựng chuyện”; lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các hiện tượng tôn giáo mới, mạng
xã hội để công kích, vu khống…
Cụ thể hơn, có thể nhận diện các hoạt động của chúng ở nước ngoài
gồm:
Thứ nhất, thu thập thông tin từ những
đối tượng phản động, chống đối trong các tôn giáo, các tổ chức tôn giáo trái
pháp luật, không được Nhà nước công nhận để xuyên tạc tình hình tôn giáo,
quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Trên cơ sở đó, chúng ban
hành các đạo luật, báo cáo, kiến nghị... vu cáo, can thiệp vào công việc nội bộ
của Việt Nam, kích động các thế lực thù địch ở trong nước đẩy mạnh các hoạt
động chống phá.
Thứ hai, tổ chức các hoạt động chỉ
đạo, hỗ trợ các đối tượng phản động, chống đối ở trong nước tiến hành các hoạt
động chống phá. Các tổ chức phản động, lưu vong người Việt ở nước ngoài và các
tổ chức chống đối trong các tôn giáo ở hải ngoại trực tiếp thực hiện các âm
mưu, thủ đoạn với nhiều hoạt động như: tổ chức các diễn đàn nhằm xuyên tạc, vu
cáo Đảng, Nhà nước ta vi phạm tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, kêu gọi
“quốc tế” can thiệp; đẩy mạnh xuyên tạc, chống phá trên các phương tiện thông
tin đại chúng, nhất là mạng xã hội; tổ chức các hội luận, tập huấn, huấn luyện
các hoạt động tuyên truyền, biểu tình, gây rối...; trực tiếp móc nối, hỗ trợ
vật chất, tinh thần cho các thế lực thù địch trong nước.
Các thế lực thù địch, phản động ở trong nước thường tập trung vào những
khía cạnh: Một là, thường
xuyên liên kết, câu kết chặt chẽ với nhau (Hội đồng liên tôn, Bàn tròn đa tôn
giáo...) và tiếp nhận, thực hiện sự chỉ đạo, hỗ trợ của các thế lực thù địch ở
nước ngoài. Hai là, đẩy
mạnh các hoạt động soạn thảo, tán phát tài liệu kích động chống phá, cung cấp
cho các thế lực thù địch ở nước ngoài những nội dung sai sự thật, thổi phồng sự
kiện. Ba là, lợi
dụng các ngày lễ của tôn giáo, các sự kiện nhạy cảm để kích động, lôi kéo tín
đồ tập trung đông người, gây rối, biểu tình, gây mất an ninh trật tự. Bốn là, lợi dụng các
“hiện tượng tôn giáo mới” để trục lợi, làm lệch chuẩn đạo đức, văn hóa xã hội,
gây hoang mang dư luận và mất ổn định chính trị - xã hội.
Một sự thật hiển nhiên là, các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tôn
giáo không phải vì lợi ích của các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ, cũng
không vì “tự do tôn giáo” như chúng thường rêu rao, mà là nhằm thực hiện mưu đồ
chính trị phản động hòng phá hoại sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Đây là điều
đi ngược lại lợi ích chân chính của đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo, của
các chức sắc, tín đồ tôn giáo mong muốn có cuộc sống “tốt đời đẹp đạo”, “đồng
hành cùng dân tộc”, thực sự hạnh phúc trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh.
Đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản
động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cuộc đấu
tranh chống “diễn biến hòa bình”, được tiến hành bằng hệ thống các giải pháp
đồng bộ vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài; kết hợp chặt chẽ giữa
phòng ngừa, ngăn chặn với xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Trước mắt, cần
thực hiện tốt các định hướng chủ yếu: tuyên truyền, giáo dục; xác định nội
dung, hình thức, biện pháp; tổ chức thực hiện; điều kiện bảo đảm. Trong đó, chú
trọng nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho toàn xã hội;
phát huy sức mạnh tổng hợp, tổ chức thực hiện “thích
ứng” với từng giai đoạn, hoàn cảnh; có cơ chế, chính sách phù hợp.../.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995, tr.197.
(3) Hồ Chí
Minh: Toàn tập, t.15,Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, tr.141-142.
(4) Hồ Chí
Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, tr.249.
(5) Hồ Chí
Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, tr.442.
(6) Viện Nghiên
cứu Tôn giáo: Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Nxb.
Khoa học xã hội, H, 1998, tr.255.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995,tr.604
Đặng Thành
Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét