21/2/23

Phát triển kinh tế trí thức với củng cố quốc phòng - an ninh và xây dựng Quân đội ở nước ta hiện nay

Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản xuất ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải vật chất dồi dào nâng cao chất lượng cuộc sống. Phát triển kinh tế tri thức và xây dựng nền quốc phòng - an ninh, xây dựng quân đội là hai hoạt động khác nhau, song chúng lại có mối quan hệ hữu cơ tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động của phát triển kinh tế tri thức đến sự nghiệp quốc phòng - an ninh và xây dựng quân đội ta diễn ra nhiều chiều đan xen cả tích cực lẫn tiêu cực.


Kinh tế tri thức là vấn đề mới mẻ, việc nghiên cứu tìm hiểu sâu sắc vấn đề này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn góp phần củng cố nhận thức và giải đáp những vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay. Nghiên cứu kinh tế tri thức ta thấy có những đặc trưng riêng của nó:

Trước hết, thông tin tri thức khoa học công nghệ là nhân tố chủ yếu tạo ra giá trị kinh tế, cơ cấu nền kinh tế đã được chuyển dịch từ nền sản xuất vật chất là chủ yếu sang lĩnh vực hoạt động sáng tạo tri thức, công nghệ và xử lý thông tin, tạo ra nhiều việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống con người.

Thứ hai, thông tin tri thức khoa học công nghệ biến đổi với tốc độ rất cao, xu thế toàn cầu hoá, nhất thể hoá nền kinh tế quốc gia và khu vực tăng nhanh với tính hai mặt: cạnh tranh khốc liệt và hợp tác hiệu quả.

Thứ ba, kinh tế tri thức tạo ra một xã hội thông tin rộng khắp đa chiều, phương thức quản lý có sự thay đổi căn bản, xuất hiện nhiều mô hình quản lý linh hoạt, dễ thích ứng với cái mới, khơi dậy sự năng động sáng tạo của con người. Kinh tế tri thức hình thành một xã hội học tập, học tập thường xuyên học tập suốt đời. Đầu tư cho giáo dục và khoa học chiếm tỷ lệ rất cao và nhân tố quan trọng hàng đầu trong xã hội là phát triển nguồn lực con người có tri thức sâu rộng.

Phát triển kinh tế tri thức đối với Việt Nam vừa là vấn đề tất yếu khách quan vừa là vấn đề bức thiết nhằm phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng quân đội ngày càng hiện đại phù hợp với xu thế vận động chung của khu vực và thế giới. Phát triển kinh tế tri thức tạo ra cơ hội to lớn để khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế, rút ngắn khoảng cách quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Phát triển kinh tế tri thức là yêu cầu xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Phát triển kinh tế tri thức góp phần tích cực vào sự nghiệp củng cố quốc phòng nhằm “xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”[1]

Trong giai đoạn cách mạng mới, kinh tế tri thức có quan hệ chặt chẽ với củng cố quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế tri thức và xây dựng quốc phòng - an ninh, xây dựng quân đội là hai lĩnh vực hoạt động khác nhau nhưng chúng ta lại có mối quan hệ hữu cơ tác động qua lại lẫn nhau. Quốc phòng - an ninh và quân đội phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế tri thức, nhưng lại có vai trò to lớn đối với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế tri thức, giữ vững ổn định để phát triển kinh tế, bảo vệ các thành quả kinh tế tri thức. Đồng thời quốc phòng - an ninh và quân đội cũng ứng dụng rất lớn sản phẩm khoa học do nền kinh tế tri thức phát triển.

Hiện nay, kinh tế tri thức có tác động rất lớn đến quốc phòng an ninh và xây dựng quân đội. Kinh tế tri thức cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho quốc phòng - an ninh và quân đội, đồng thời có tác động đến xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật quân sự đáp ứng yêu cầu chiến tranh công nghệ cao và tác động tích cực đến xây dựng nền công nghiệp quốc phòng.

Tuy nhiên, kinh tế tri thức cũng làm tăng thêm khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, làm gia tăng thêm chênh lệch thu nhập và mức sống của các giai tầng trong xã hội, làm ảnh hưởng đến quốc phòng an ninh.Với sự phát triển cao của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học đã làm gia tăng sự mất ổn định về an ninh, đặt quân đội trước nhiệm vụ khó khăn, phức tạp hơn nhiều. Các thế lực thù địch cũng sẽ lợi dụng kinh tế trí thức để can dự, xâm nhập, khống chế các nước khác đặc biệt là các nước chậm phát triển.

Trong thời gian tới, để phát triển kinh tế tri thức nhằm củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, cần thống nhất nhận thức trong toàn xã hội về sự kết hợp giữa phát triển kinh tế tri thức với củng cố quốc phòng an ninh và xây dựng quân đội trong thời kỳ mới. Đây là cơ sở cho việc thực hiện công tác tuyên truyền mang lại chất lượng, hiệu quả cao. Việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, lựa chọn nội dung, hình thức phù hợp với từng đối tượng để tuyên truyền giáo dục là việc làm hết sức cần thiết để nâng cao nhận thức của toàn xã hội cho vấn đề này. Vì vậy, thờì gian tới, Nhà nước cần quan tâm đầu tư thoả đáng cho các tuyên truyền nói trên.

Trong quân đội, cần tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nâng cao hiểu biết về nền kinh tế tri thức, mối quan hệ và tác động của nó đến củng cố quốc phòng- an ninh và xây dựng quân đội trong thời kỳ mới. Cần vận dụng nhiều hình thức phương pháp tuyền truyền giáo dục phong phú đa dạng, sử dụng các chuyên gia, các giảng viên có kiến thức sâu rộng đồng thời sử dụng các phương tiện hiện đại để tuyên truyền giáo dục cho có hiệu quả.

Hai là, chủ động xây dựng chiến lược phát triển kinh tế tri thức với chiến lược quốc phòng - an ninh và xây dựng quân đội, giải phóng mọi năng lực sản xuất và năng lực sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân trong phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng an ninh. Muốn vậy, cần đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo lập hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, bổ sung và xây dựng hoàn chỉnh khung pháp lý cho phát triển kinh tế tri thức với củng cố quốc phòng- an ninh và xây dựng quân đội. Nhà nước cũng cần xây dựng một chiến lược tổng thể, đồng bộ ở tầm vĩ mô mang tính lâu dài nhằm phát triển kinh tế tri thức với an ninh - quốc phòng, xây dựng và đẩy mạnh tốc độ phát triển các loại thị trường đặc biệt là thị trường khoa học công nghệ.

Ba là, phát triển nguồn nhân lực bậc cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức và củng cố quốc phòng - an ninh, tiến hành cải cách sâu rộng  trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Đây là vấn đề có vai trò quyết định đến tốc độ, chất lượng phát triển kinh tế tri thức với củng cố quốc phòng - an ninh và xây dựng quân đội. Mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2025 và những năm tiếp theo là xây dựng một nền giáo dục có tính thực tiễn và hiệu quả cao, tạo bước chuyển biến mạnh về chất lượng, đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng một xã hội học tập đi liền với việc mở rộng quy mô và hình thức đào tạo.

Bốn là, nâng cao năng lực nội sinh về khoa học - công nghệ tập trung phát triển các ngành công nghệ cao để phát triển kinh tế tri thức, hiện đại hoá quốc phòng - an ninh và quân đội. Muốn vậy cần phải nâng cao năng lực nội sinh của đất nước về khoa học công nghệ trong đó chú ý khoa học công nghệ quân sự; quan tâm khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng để phát triển công nghệ thông tin trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Thứ năm, phát huy vai trò của quân đội trong phát triển kinh tế tri thức. Quân đội phải làm nòng cốt bảo vệ Tổ quốc, tạo môi trường hoà bình ổn định để phát triển kinh tế đất nước, tích cực tham gia đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, các địa phương trong xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tri thức.

Tóm lại, kinh tế tri thức là vấn đề còn rất mới mẻ, nghiên cứu đề hiểu biết đầy đủ về nó là vấn đề cấp thiết có ý nghĩa thiết thực trong tinh hình hiện nay. Phát triển kinh tế tri thức tác động đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp xây dựng và củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng quân đội trong thời kỳ mới./.

Phùng Thị Dự 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.100-101.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

“Đảng ta là đạo đức, là văn minh” - 90 năm nhìn lại

Lịch sử vẻ vang của Đảng 90 năm qua là lịch sử chiến đấu, hy sinh, thế hệ tiếp nối thế hệ của những người Cộng sản Viê...